Cựu Bộ trưởng Võ Hồng Phúc (1945) được biết đến như là một chuyên gia kinh tế đối ngoại giàu kinh nghiệm và đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế VN thời mở cửa. Ông đã có gần hai nhiệm kỳ làm Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, từ năm 2002 – 2011.
Trên cương vị của mình, không chỉ góp phần quan trọng tạo dựng được hành lang thông thoáng cho cộng đồng doanh nghiệp, ông là một trong số ít chính khách dám nói thẳng về mô hình kinh tế mà nhà nước VN đang theo đuổi.
Hơn chục năm rời chính trường, ông trở lại với đời sống của một công dân giản dị, cởi mở và chia sẻ những kỷ niệm thời kỳ đương nhiệm. Trong bữa ăn trưa ở đường Đào Tấn, ôn lại chuyện cũ, ông đã đề cập khá nhiều về chuyện về tập đoàn Dầu khí VN (PVN) thời anh Đinh La Thăng làm Chủ tịch với việc sa lầy vào một số dự án đầu tư ra nước ngoài, trong đó có siêu liên doanh 1,8 tỉ USD vốn góp khai thác dầu tại Venezuela để rồi ném qua cửa sổ hàng chục ngàn tỷ đồng một đi không trở lại.
Dự án khủng, đếm cua trong lỗ.
Năm 2007, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN (PVN) của anh Đinh La Thăng đã xin phép Chính phủ được đàm phán với Công ty dầu khí quốc gia Venezuela về việc thành lập một liên doanh khai thác dầu giữa hai nước.
Được chấp thuận, PVN giao cho công ty con là Tổng CTy thăm dò khai thác dầu khí (PVEP) trực tiếp làm việc với TCT dầu khí Venezuela (thành viên của Công ty dầu khí quốc gia Venezuela).
Tháng 6/2010, tại thủ đô Caracas của Venezuela, “Dự án khai thác và nâng cấp dầu nặng lô Junin 2” được chính thức ra mắt. Tổng mức đầu tư được loan báo lên tới 12,4 tỉ USD, phân kỳ làm hai giai đoạn, ban đầu rót 8,9 tỉ USD, giai đoạn 2 rót 3,5 tỉ USD.
Ngoài tính chất "siêu dự án" về mặt quy mô vốn đầu tư, lô Junin 2, được PVN báo cáo Chính phủ nằm ở khu vực có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, cho phép khai thác công suất 1.400 tỉ thùng.
Theo tỷ lệ vốn góp 40%, PVN có thể thu về 4 triệu tấn dầu/năm, dự kiến hoàn vốn sau 7 năm. Con số này tương đương 70% sản lượng dầu của Vietsovpetro, liên doanh dầu khí đầu tiên và lớn nhất tại VN.
Vốn được thu xếp cho giai đoạn đầu như sau:
Liên doanh vay 60% tương ứng 5,8 tỉ USD; 40% còn lại do các bên đóng góp tương ứng 3,1 tỉ USD. Phần vốn mà VN phải đóng góp tương ứng với tỷ lệ tham gia 40% trong hợp đồng là 1,241 tỉ USD. Nếu tính cả “phí tham gia hợp đồng” (bonus) 584 triệu USD thì tổng nhu cầu vốn của phía VN là 1,825 tỉ USD.
Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư lúc đó là ông Võ Hồng Phúc, là người am hiểu khá sâu sắc ngành dầu khí. Hơn thế là với Venezuela, quốc gia Nam Mỹ vẫn dương cao ngọn cờ CNXH và theo đuổi mô hình kinh tế cũ sắp tuyệt chủng nên ông Phúc rất thận trọng trong việc làm ăn với mấy ông này.
Trong báo cáo ngày 11/8/2010 gửi Thủ tướng, Bộ trưởng KH-ĐT Võ Hồng Phúc đã phân tích các rủi ro tại thị trường Venezuela, đặc biệt là về tài chính: Lạm phát, chênh lệch tỷ giá, yêu cầu sử dụng dịch vụ nội địa, phá giá đồng tiền ngày 9/1/2010 mất 50% giá trị… và Bộ trưởng Võ Hồng Phúc đã yêu cầu "phải được cân nhắc hết sức thận trọng, đặc biệt khi nó được đầu tư bằng vốn nhà nước và vốn vay của DNNN".
Sau nghi lễ ra mắt hoành tráng, đúng như những khuyến cáo của giới chuyên môn và các bộ, ngành nước ta mà lãnh đạo PVN lúc đó đã bỏ ngoài tai, "siêu dự án" đã chẳng đi tới đâu. Chưa kể các chi phí đầu tư lên đến hàng trăm triệu USD, chỉ riêng tiền mặt mà PVN trực tiếp trao cho Venezuela, một đi không trở lại, đã lên đến 532 triệu USD: 442 triệu tiền "bonus", 90 triệu tiền góp vốn ban đầu.
Hợp đồng theo kiểu đồng chí- anh em- lọt sàng xuống nia
Giờ đây có dịp đọc lại Hợp đồng liên doanh khai thác dầu khí với “nước bạn” ở bên kia bán cầu mới thấy sự hào phóng của Chủ tịch PVN lúc đó, người từng trưởng thành trên công trường thanh niên cộng sản Sông Đà.
Chưa kể các chi phí đầu tư lên đến hàng trăm triệu USD, chỉ riêng tiền mặt mà PVN trực tiếp trao cho Venezuela, một đi không trở lại, đã lên đến 532 triệu USD: 442 triệu tiền "bonus", 90 triệu tiền góp vốn ban đầu. Để thuyết phục sự chấp thuận của các bộ, ngành, PVN đã báo cáo rằng sản lượng của Junin 2 lên đến "200.000 thùng/ngày, tương đương 10 triệu tấn/năm"...
Không chỉ Bộ KH- ĐT, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng bày tỏ lo ngại khi dự án chưa làm rõ được rủi ro tại quốc gia đầu tư, khả năng huy động vốn, trong đó làm rõ về thời gian ân hạn khoản vay. Thực tế, theo NHNN, để thu xếp được các khoản vay giá trị lớn, trong suốt 6 năm như báo cáo là vô cùng khó khăn.
Về nguồn vốn góp của PVN, theo NHNN cơ cấu nguồn vốn của công ty con PVEP bao gồm vốn chủ sở hữu, các nguồn để lại cho Tập đoàn đầu tư phát triển (547 triệu USD) và vốn vay thương mại (1,278 tỉ USD). PVEP ở thời điểm đó đang triển khai khá nhiều dự án đầu tư ở nước ngoài, với tổng vốn đầu tư cho các dự án lên tới hàng tỉ USD (và đều không hiệu quả). Do đó, NHNN đề nghị Bộ KH-ĐT lưu ý PVN làm rõ phương án sử dụng vốn cho dự án.
Bộ Tài chính cũng cảnh báo về một loạt các yếu tố rủi ro về khoản góp vốn của VN khi chưa có đánh giá cụ thể, chưa cập nhật các chi phí, tỷ suất thu hồi vốn…
Đặc biệt, Bộ Tài chính còn yêu cầu PVN giải trình khoản thanh toán 584 triệu USD bằng tiền mặt trong khoảng thời gian ngắn cái gọi là "phí tham gia hợp đồng” (bonus) cho phía Venezuela (một nửa số tiền phải thanh toán ngay trong vòng 6 tháng từ ngày hợp đồng có hiệu lực).
Theo Bộ Tài chính "đề xuất thanh toán phí tham gia hợp đồng" vô lý này mới được PVN đưa vào so với các lần xin chủ trương trước đó.
Lách luật, không xin chủ trương của Quốc hội
Ngày 5/8/2010, Bộ trưởng Võ Hồng Phúc đã có văn bản gửi PVN, yêu cầu phải khẩn trương hoàn tất hồ sơ dự án để trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Ngày 10/8/2010, Bộ Tài Chính cũng có công văn khẳng định rằng, theo Nghị quyết 49/2010/QH12 thì PVN phải lập hồ sơ trình xin chủ trương Quốc hội.
Cụ thể, Nghị quyết 49 nêu rõ dự án, công trình đầu tư ra nước ngoài nếu có quy mô tổng vốn đầu tư từ 25.000 tỉ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước tham gia từ 7.000 tỉ đồng trở lên hoặc dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt đều được coi là dự án, công trình quan trọng quốc gia và đều phải trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Trong khi đó, tổng vốn góp của PVN trong dự án này lên tới 956 triệu USD và dự án đã được ra mắt từ tháng 6/2010.
Chủ tịch PVN, Đinh La Thăng biện hộ rằng dự án được triển khai trước năm 2010 nên không áp dụng nghị quyết trên. Ông Võ Hồng Phúc không đồng ý quan điểm này và cho rằng, căn cứ vào Nghị định 09/2009/NĐ-CP về "Quản lý tài chính công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào DN khác", tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của dự án Junin 2 là 1,825 tỉ USD là của PVN (cả vốn chủ sở hữu và vốn vay) đều là vốn nhà nước. Bởi vậy, đây là dự án, công trình quan trọng của quốc gia thuộc diện phải trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư theo Nghị quyết 66/2006/QH11.
Vẫn theo phong cách điều hành như hồi còn ở Tổng công ty Sông Đà theo kiểu “tiền trảm hậu tấu”, tuy chưa xin ý kiến Quốc hội nhưng từ tháng 5/2009, Chủ tịch Thăng của PVN đã cho tiến hành các hoạt động phối hợp thăm dò, đàm phán và từ ngày 29/6/2010 đã ký hợp đồng với nhiều điều kiện phi lý, ràng buộc chính PVN vào tình huống nếu không làm tiếp là phải chịu phạt rất nặng…
Rồi ông Thăng cũng có võ khác để lách qua được Quốc hội đó là xin ý kiến của từng thành viên của BCT để hợp thức hóa dự án.
Tháng 4/2013, ban lãnh đạo mới của PVN đã quyết định bỏ dự án này để "cứu" khoản tiền phải nộp lên đến 142 triệu USD, chấp nhận bỏ hơn 500 triệu USD phí Bonus, cho dù chưa thu được giọt dầu nào.
Hơn chục ngàn tỷ đã thất thoát nhưng chưa quy được trách nhiệm cho đồng chí nào!
Phan Thế Hải